Chưa chắc doanh nghiệp được hưởng lợi từ 'vênh' thuế nhập khẩu xăng dầu
02:52 SA @ Thứ Hai - 21 Tháng Ba, 2016

Thừa nhận có chuyện chênh lệch thuế nhập khẩu ưu đãi xăng dầu nhưng Bộ Tài chính việc cho rằng để hưởng mức thuế suất ưu đãi 10% với mặt hàng xăng, 5% với mặt hàng dầu thì doanh nghiệp phải chứng minh được nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá...

Thời gian qua, có ý kiến cho rằng các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được tạo thuận lợi khi mức thuế nhập khẩu trong cơ cấu giá cơ sở điều hành giá bán lẻ xăng dầu trong nước tính theo mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN). Việc phát sinh chênh lệch thuế trong cách tính giá bán lẻ xăng dầu khiến người dân phải mua xăng giá đắt, lợi nhuận chảy vào túi doanh nghiệp…

Giải thích về vấn đề này, Bộ Tài chính cho biết, theo cam kết tại các Hiệp định thương mại tự do, các mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với mặt hàng xăng dầu đang trong lộ trình giảm dần. Giai đoạn 2016-2020 là giai đoạn mà mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với các mặt hàng xăng dầu được giảm mạnh, do việc đàm phán ký kết của từng Hiệp định tại các thời điểm khác nhau nên có các mức cam kết cắt giảm thuế suất khác nhau và vào các thời điểm khác nhau tùy theo từng Hiệp định. Theo đó, việc chênh lệch thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các Hiệp định là tất yếu.


Ảnh minh họa.

Trong 11 Hiệp định song phương, khu vực, có một số Hiệp định, mặt hàng xăng dầu thuộc danh mục “loại trừ” (không có nghĩa vụ cắt giảm) như các FTA: ASEAN-Trung Quốc (ACFTA), ASEAN-Nhật Bản (AJCEP), Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA), ASEAN-Úc-NiuDiLân (AANZFTA), ASEAN-Ấn Độ (AIFTA), Việt Nam-Chi Lê (VCFTA). Tuy nhiên, cũng có một số Hiệp định đã được cắt giảm với mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt năm 2016. Đó là các biểu thuế nhập khẩu xăng dầu với các nước ASEAN, Việt Nam – Hàn Quốc...

Trong đó, với xăng dầu nhập khẩu từ các nước ASEAN thì mức thuế nhập khẩu với mặt hàng xăng là 20%, còn các loại dầu diezel, madut, dầu hoả, nhiên liệu bay là 0%. Còn với xăng dầu nhập khẩu từ Hàn Quốc, mức thuế xuất này được xác định là 10% với xăng, 5% với dầu diezel, dầu hoả và nhiên liệu bay, 0% với dầu madut trong năm 2016.

Những mức thuế trên được xác định là thấp hơn mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) được xác định tính trong giá cơ sở điều hành với mặt hàng xăng dầu là 20% với mặt hàng xăng và 10% với mặt hàng dầu. Tuy nhiên, để được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thì hàng hoá nhập khẩu từ các nước này phải đảm bảo điều kiện về xuất xứ (C/O), về điều kiện vận chuyển...

Bộ Tài chính cũng cho biết, thực tế, thời gian qua, không phải tất cả xăng dầu nhập khẩu đều được nhập khẩu từ các nước có ký các FTA, mà ngay cả hàng hoá nhập khẩu từ các nước có ký các FTA cũng không phải tất cả đều được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các FTA đó. Ngoài ra, xăng dầu nhập khẩu từ Singapore, Hàn Quốc về tới Việt Nam tốn thêm khoản chi phí về vận chuyển và bảo hiểm chiếm khoảng 6-7% giá xăng dầu nhập khẩu.

Mặc dù khẳng định như vậy nhưng Bộ Tài chính cũng thừa nhận rằng trước thực tế mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) cao hơn mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt tại một số FTA, thì việc thuế nhập khẩu tính trong giá cơ sở điều hành giá bán lẻ xăng dầu tính theo mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) là không còn phù hợp.

Vì vậy, để khắc phục sự chưa hợp lý này, cùng với việc điều chỉnh giảm mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với mặt hàng xăng dầu, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Công Thương có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ, và đã được Thủ tướng Chính phủ đồng với phương án xác định mức thuế nhập khẩu tính trong giá cơ sở điều hành giá bán lẻ xăng dầu theo mức bình quân gia quyền của các Biểu thuế (MFN và FTA), tỷ trọng xăng dầu nhập khẩu từ các nước ký Biểu thuế FTA được xác định theo quý (dùng số liệu của quý trước để tính cho quý sau) do Tổng cục Hải quan tổng hợp, xác định qua hệ thống hải quan điện tử.

Theo Bộ Tài chính, việc dùng mức thuế nhập khẩu bình quân gia quyền sẽ bảo đảm sát với thực tế hàng hoá nhập khẩu từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp xăng dầu, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước.

Nguồn: