Những nhóm hàng nhập khẩu chính 11 tháng năm 2016
02:28 SA @ Thứ Sáu - 23 Tháng Mười Hai, 2016

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng năm 2016, kim ngạch nhập khẩu 10 nhóm hàng chủ yếu đạt 99,86 tỷ USD, chiếm 63,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu chủ yếu của cả nước. Trong đó, nhóm hàng lớn nhất là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (25,33 tỷ USD); tiếp theo là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác (25,24 tỷ USD), điện thoại các loại và linh kiện (9,56 tỷ USD), vải các loại (9,55 tỷ USD)...

Cơ cấu thị trường xuất khẩu nhóm hàng nguyên phụ liệu sang Việt Nam 11 tháng 2016

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng là 2,53 tỷ USD, giảm 6,5% so với tháng trước. Tính trong 11 tháng/2016, cả nước nhập khẩu 25,33 tỷ USD, tăng 18,5%; trong đó nhập khẩu của khu vực FDI là 23,4 tỷ USD, tăng 19,2% và nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước là 1,93 tỷ USD, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước.

Hàn Quốc tiếp tục là đối tác lớn nhất cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam với trị giá nhập khẩu là 7,94 tỷ USD, tăng 26,3%; tiếp theo là các thị trường: Trung Quốc: 5,36 tỷ USD, tăng 12,1%; Đài Loan: 2,9 tỷ USD, tăng mạnh 43,4%; Nhật Bản: 2,54 tỷ USD, tăng 20,7%; Hoa Kỳ: 1,97 tỷ USD, tăng mạnh 50%... so với một năm trước đó.

Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng: Trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng là 2,74 tỷ USD, tăng 14,8% so với tháng trước, nâng trị giá nhập khẩu trong 11 tháng/2016 lên 25,24 tỷ USD, tăng nhẹ 0,7% so với 11 tháng/2015. Khối doanh nghiệp FDI nhập khẩu 13,85 tỷ USD, giảm 11,6% trong khi khối doanh nghiệp trong nước nhập khẩu 11,4 tỷ USD, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm 2015.

Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam trong 11 tháng qua với trị giá là 8,27 tỷ USD, tăng 1,5%; tiếp theo là các thị trường: Hàn Quốc: 5,12 tỷ USD, tăng 9,5%; Nhật Bản: 3,72 tỷ USD, giảm 10,7%; Đức: gần 1,2 triệu USD, tăng 9,1%... so với cùng kỳ năm trước.

Điện thoại các loại và linh kiện: Đạt kim ngạch nhập khẩu trong tháng 11-2016 là hơn 1,01 tỷ USD, tăng 0,4% so với tháng trước. Qua đó, đưa kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này trong 11 tháng/2016 đạt gần 9,56 tỷ USD, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm trước.

Các thị trường cung cấp điện thoại các loại và linh kiện cho Việt Nam trong11 tháng /2016 chủ yếu gồm: Trung Quốc với gần 5,51 tỷ USD , giảm 14,6% so với cùngk kỳ; Hàn Quốc với kim ngạch gần 3,32 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước; ...

Nguyên phụ liệu (bao gồm: vải các loại; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giầy; xơ, sợi dệt cá lại; bông các loại): Đạt kim ngạch nhập khẩu trong tháng 11-2016 là gần 1,34 tỷ USD. Qua đó, đưa kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng trong 11 tháng/2016 đạt gần 16,17 tỷ USD, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước.

Các thị trường cung cấp nhóm nguyên phụ liệu chủ yếu cho Việt Nam trong 11 tháng/2016 chủ yếu gồm: Trung Quốc với kim ngạch hơn 7,3 tỷ USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ; Hàn Quốc với kim ngạch hơn 2,63 tỷ USD, tăng 2% so với cùng kỳ; Đài Loan đạt kim ngạch hơn 2,09 tỷ USD, tăng 2,4%; ...

Sắt thép các loại: Nhập khẩu sắt thép trong tháng 11 là 1,46 triệu tấn, trị giá là 712 triệu USD, giảm 5,8% về lượng và giảm 2% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 11-2016, lượng sắt thép cả nước nhập về là 16,9 triệu tấn, tăng 22,5% về lượng. Đơn giá nhập khẩu sắt thép các loại bình quân trong 11 tháng/2016 giảm 13,1% nên trị giá nhập khẩu là 7,25 tỷ USD, chỉ tăng nhẹ 6,4% so với cùng kỳ năm 2015.

Sắt thép các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 11 tháng qua từ Trung Quốc là 9,9 triệu tấn, tăng 18%; Nhật Bản: 2,44 triệu tấn, tăng 7%; Hàn Quốc: 1,69 triệu tấn tăng 6,5% so với 11 tháng/2015.

Xăng dầu các loại: Lượng nhập khẩu xăng dầu các loại trong tháng là gần 1,04 triệu tấn với trị giá nhập khẩu là gần 491 triệu USD, tăng 22,1% về lượng và tăng 23,6% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết 11 tháng/2016, cả nước nhập khẩu 10,6 triệu tấn với trị giá là 4,3 tỷ USD, tăng 16,9% về lượng nhưng giảm 12,7% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 11 tháng qua chủ yếu có xuất xứ từ: Singapo với 3,73 triệu tấn, tăng 8,6%; Malaysia: 2,83 triệu tấn, gấp 4 lần; Hàn Quốc: 1,6 triệu tấn, gấp 5 lần; Thái Lan: 1,24 triệu tấn, giảm 38,6%; Trung Quốc: 968 nghìn tấn, giảm 34,2% so với 11 tháng/2015.

Nguồn: