Nguyên nhân tăng giá xăng dầu ở Việt Nam
04:16 SA @ Thứ Năm - 28 Tháng Hai, 2013
Có rất nhiều nguyên nhân từ chính sách tỉ giá, lạm phát, rồi tác động do chính sách, môi trường kinh doanh còn hạn chế...

Do phần lớn xăng dầu tại Việt Nam là nhập khẩu (khoảng 70%) nên ngoài những yếu tố tác động đến giá xăng dầu trên thế giới như đã trình bày trước đây, thì sau đây là một số yếu tố tác động đặc trưng riêng lên giá xăng dầu trong nước:

• Tác động của chính sách tỷ giá đến giá xăng dầu

- Việc giao dịch nhập khẩu xăng dầu đều được tính bằng đôla Mỹ, điều này có nghĩa chính sách tỷ giá USD/VNĐ có tác động trực tiếp lên giá cả xăng dầu trong nước. Bên cạnh chính sách tỷ giá, thì rổ dự trữ ngoại hối, hàng hóa của Việt Nam cũng gây tác động không nhỏ đến giá cả xăng dầu trong nước.

• Tác động của lạm phát lên giá xăng dầu

- Lạm phát của Việt Nam thời kỳ trước đây và sau này luôn được xem là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế. Lạm phát do nhiều nguyên nhân khác nhau, không đề cập trong phần viết này, nhưng tác động của lạm phát lên giá cả xăng dầu trong nước là không tránh khỏi.

Lạm phát làm xói mòn giá trị thanh toán của đồng tiền hay giảm sức mua hàng hóa của tiền đồng, gây ra những tác động dây chuyền đối với nền kinh tế.

Giả sử, ngay khi giá cả xăng dầu không thay đổi, nhưng lạm phát trong nước gia tăng, hạn chế sức mua của tiền đồng thì rõ ràng xăng dầu không khác nào đã lên giá trong bối cảnh lạm phát leo thang.

Như vậy, có thể khẳng định rằng lạm phát là một phần nguyên nhân dẫn đến xăng dầu ở Việt Nam tăng giá với đặc điểm khác so với các nước có mức lạm phát ổn định.

Ngoài ra, do lượng xăng dầu trong nước chủ yếu là nhập khẩu, do đó sức mua tương đương của tiền đồng so với các đồng tiền khác cũng cho thấy một vấn đề, xăng dầu ở Việt Nam là mặt hàng “xa xỉ” nếu đem so sánh với một số các nước khác.

• Tác động từ sự giới hạn của một số lượng nhà nhập khẩu xăng dầu lên giá xăng dầu

Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp qua kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ắt hẳn còn nhiều tồn đọng.

Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động cũng như giám sát của cổ đông, đã cho thấy sự cố gắng, nỗ lực chuyển đổi mô hình hoạt động của DNNN cho hợp với tình hình mới.

Tuy nhiên, vẫn còn đó những tồn đọng cần được mổ xẻ và khắc phục. Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu còn một số vấn đề nổi bật sau:

- Hoạt động kinh doanh nhập khẩu, phân phối xăng dầu trên toàn quốc có 11 nhà nhập khẩu xăng dầu đầu mối, có khoảng 14.000 cửa hàng bán lẻ xăng dầu.

Mặc dù giá vốn của các DN đầu mối nhập khẩu khác nhau, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, điều kiện kinh doanh lãi lỗ của các DN này cũng khác nhau. Nhưng trên thực tế hệ thống phân phối bán lẻ xăng dầu của nước ta vẫn là hệ thống cửa hàng một giá, các DN không có sự cạnh tranh về giá trên thị trường xăng dầu (TTXD).

- Cơ chế xăng dầu một giá trên cả nước thể hiện sự điều tiết có qui luật của Nhà nước cũng như của nhóm các nhà nhập khẩu xăng dầu. Nhưng cũng chính từ cơ chế một giá này đã phát sinh những bất cập, thiếu sót trong việc quản lý và điều tiết hoạt động kinh doanh bán buôn của các đại lý thuộc sở hữu của các thành phần kinh tế khác khi có sự biến động của giá cả xăng dầu trên thị trường.

• Tác động do chính sách, môi trường kinh doanh còn hạn chế


- Chính sách Nhà nước về hỗ trợ giá tạo tâm lý ỷ lại, tạo ra môi trường kinh doanh thiếu tính cạnh tranh bình đẳng, thiếu sáng tạo. Công tác hoạch định, dự báo bị xem nhẹ, không tạo sự khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu thị trường áp dụng công cụ phái sinh (CCPS) vào hoạt động kinh doanh xăng dầu.

- Thiếu thị trường kỳ hạn (TTKH), giao sau cho hàng hóa trong nước, chất xúc tác cần thiết cho việc phát triển việc ứng dụng công cụ phòng tránh rủi ro như hợp đồng kỳ hạn (HĐKH), giao sau xăng dầu phát triển.

- Nạn đầu cơ tích trữ, nạn buôn bán xăng dầu lậu qua biên giới vẫn diễn ra phổ biến do sự vênh giá xăng dầu trong nước và một số nước lân cận.

• Tác động của yếu tố lịch sử, địa lý, công nghệ

- Tác động của ý thức kinh tế tập trung bao cấp vẫn còn, bên cạnh trình độ công nghệ còn hạn chế phục vụ cho công tác thăm dò, tận dụng nguồn dầu nguyên liệu thô sẵn có trong nước.

Việc ra đời của nhà máy lọc dầu Dung Quất trong năm 2010 đã cho thấy Đảng và Nhà nước đã và đang có những chiến lược lâu dài nhằm tận dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên xăng dầu của quốc gia để phục vụ nhu cầu, lợi ích của đất nước, hạn chế đến mức thấp nhất lượng xăng dầu nhập khẩu. Qua đó giảm sự tác động do biến động của giá cả xăng dầu nhập khẩu lên nền kinh tế.

- Theo số liệu thống kê của CIA World Factbook thì trữ lượng dầu thô trong nước vào khoảng 4,7 tỷ thùng, mức khai thác 338.400 thùng dầu trên ngày, xuất khẩu 29.400 thùng dầu/ngày, nhập khẩu khoảng 134.200 thùng/ngày.

Việt Nam có hơn 3.200 km đường bờ biển, có nguồn dầu mỏ tương đối dồi dào, và việc vận chuyển dầu nhập khẩu từ nước ngoài cũng rất thuận lợi. Nếu biết tận dụng những yếu tố này có thể góp phần tách động tích cực đến giá cả dầu mỏ trong nước.

• Sự ra đời của xăng sinh học và tác động của nó đến thị trường xăng dầu

- Ngày 2/4/2011 lễ khánh thành nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Ethanol (xăng xanh sạch) từ sắn đầu tiên tại Việt Nam tại tỉnh Quảng Nam. Công suất của nhà máy Ethanol Đại Lộc là 100.000 tấn cồn Ethanol/năm, tương đương 125 triệu lít/năm phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

- Về sản xuất dầu diezen sinh học, thì ở Việt Nam có các loại cây như cọc rào, dầu cọ, hạt bông, mỡ cá, dầu thực phẩm thải… là nguyên liệu tiềm năng cho sản xuất xăng dizen sinh học.

Ước tính Việt Nam có thể sản xuất khoảng 500 triệu lít diezen sinh học mỗi năm nếu như tổ chức quy hoạch và thực hiện vùng nguyên liệu theo hướng sử dụng đất triệt để, tạo nhiều loại giống có sản lượng cao và sở hữu công nghệ tách dầu từ nguyên liệu.

Nhận thấy được tiềm năng của thị trường Việt Nam về nhiên liệu sinh học (NLSH), các cơ quan, tổ chức của Nhà nước cũng như các công ty tư nhân đã có các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm và tiến hành đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất NLSH. Các công ty nước ngoài cũng đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm các đối tác đầu tư trong nước.

• Tác động từ một thị trường hàng hóa mang đậm yếu tố mua bán truyền thống

- Theo số liệu thống kê thì cả nước có khoảng 10.000 chợ, 76% là ở nông thôn. Hiện tại nước ta có 3 TTCK trong giai đoạn sơ khai là Upcom và HNX tại Hà Nội, HOSE tại Hồ Chí Minh; một thị trường giao dịch cà phê kỳ hạn tại Buôn Ma Thuột BCEC, Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam VNX.

Những con số thống kê trên cho ta thấy rằng việc trao đổi mua bán hàng hóa trong nước vẫn mang đậm tính truyền thống, thiếu một thị trường giao sau về hàng hóa, nông sản cho một nước thuần nông như Việt Nam, và thị trường giao dịch xăng dầu cũng không ngoại lệ.

TheoNgô Dũng PYV

VnExpress