Nội dung hai "vế" của phương thức quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu
03:37 SA @ Thứ Tư - 03 Tháng Bảy, 2013

Trong hơn một thập kỷ qua thuật ngữ “cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” hay “cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước” được sử dụng rộng rãi trên các phương tin thông tin đại chúng và ngày càng trở nên không xa lạ với mỗi người dân Việt Nam.

Các nhà lý luận cho rằng, đây là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam. Rất tiếc là cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu hoặc hướng dẫn cụ thể nào của các nhà lý luận Việt Nam về nội dung của phương thức đó dẫn đến những bất cập trong việc quản lý nhiều hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước.

Ảnh: Internet

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không có tham vọng bàn về nội dung của phương thức quản lý mới mà chỉ xin giới hạn vào việc trình bày một số quan điểm của mình trong việc điều hành và quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu theo “cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước”. Trước khi làm rõ nội dung của từng “vế” của phương thức quản lý này, xin được trình bày các quan điểm chủ đạo có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến việc hoạch định cơ chế quản lý nhằm phát huy tối đa hiệu quả hoạt động kinh doanh xăng dầu với tư cách là hàng hóa đặc biệt, kinh doanh có điều kiện, ngân sách nhà nước điều tiết trực tiếp và đóng góp cho ngân sách chiếm trên dưới 35% giá bán lẻ:

1- Đến trước năm 2018 khi thị trường bán lẻ xăng dầu Việt Nam phải mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài như đã cam kết quốc tế, Việt nam phải tạo ra được một khung pháp lý hoàn chỉnh mà ở đó thị trường xăng dầu Việt nam có đầy đủ điều kiện để tiếp cận với thị trường thế giới và khu vực.

2- Đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người sử dụng, đảm bảo an ninh năng lượng và an sinh xã hội.

3- Không để các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu bị lỗ do cơ chế.

4- Không nên có những quy định quá cụ thể nhưng thiếu tính thực tiễn về phương thức hoạt động của doanh nghiệp xăng dầu. Trên thực tế, chúng ta đã ban hành một số văn bản pháp quy gây trở ngại cho doanh nghiệp được phát huy hết năng lực của mình trong “cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước”. Thông báo số 135/TB-BTC của Bộ Tài chính về việc điều chỉnh chi phí kinh doanh định mức xăng, dầu là một điển hình.

Trên cơ sở của các quan điểm chủ đạo nói trên, chúng tôi xin làm rõ các nội dung của vế thứ hai: “có sự điều tiết của Nhà nước”.

1- Một trong những nội dung quan trọng rất cần sự quản lý của Nhà nước đó là quy hoạch phát triển hạ tầng kinh doanh xăng dầu, bao gồm hệ thống kho cảng đầu mối, kho xăng dầu dự trữ chiến lược và dự trữ lưu thông, hoạch định mạng lưới kinh doanh xăng dầu theo hướng bảo hộ hữu hiệu toàn bộ hệ thống kinh doanh xăng dầu từ khâu nhập khẩu đến khâu bán lẻ trên địa bàn cả nước. Hiện nay, hệ thống kinh doanh xăng dầu bao gồm 17 thương nhân đầu mối, khoảng 400 đại lý và hơn 13.000 cửa hàng bán lẻ xăng dầu là tài sản rất lớn và đã phục vụ nhu cầu bảo vệ, xây dựng đất nước mà chúng ta phải mất gần 40 năm mới xây dựng được. Để tránh tình trạng hệ thống bán lẻ nhu yếu phẩm của Việt nam đã rơi vào tay các nhà đầu tư nước ngoài, thiết nghĩ các nhà hoạch định chính sách cần có những giải pháp hữu hiệu để hệ thống bán lẻ xăng dầu của Việt Nam không cùng chung số phận nói trên khi Việt Nam buộc phải mở cửa thị trường xăng dầu vào năm 2018 theo đúng cam kết với các tổ chức quốc tế.

2- Trên cơ sở dự báo nhu cầu sử dụng xăng dầu trên địa bàn cả nước, giao hạn mức nhập khẩu theo quý, các thương nhân đầu mối phải nhập khẩu xăng dầu đúng chất lượng và tiến độ.

Việc giao hạn mức theo quý sẽ ràng buộc trách nhiệm của các thương nhân đầu mối trong việc đảm bảo nguồn, tránh dồn nguồn về một đầu mối nhập khẩu khi giá thế giới tăng cao.

3- Chỉ tiến hành điều tiết giá bán lẻ khi giá cơ sở vượt khung quy định.

4- Thanh kiểm tra, xử lý vi phạm, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Sử dụng bộ máy quản lý từ trung ương đến địa phương tiến hành quản lý chất lượng và số lượng xăng dầu trên địa bàn cả nước.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hệ thống xăng dầu của Việt Nam trong tương lai, 4 nội dung quan trọng nói trên rất cần đến sự điều tiết vĩ mô của nhà nước.

Hoạt động kinh doanh xăng dầu cần được vận hành theo cơ chế thị trường (Ảnh: Internet)

Trước khi đề cập tới nội dung của “cơ chế thị trường” trong hoạt động kinh doanh xăng dầu, chúng tôi xin làm rõ bản chất của nó là gì. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường dưới sự tác động của các quy luật đặc thù của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế thị trường là một hệ thống thống nhất mà ở đó các yếu tố giá cả, cung - cầu, cạnh tranh ... phải tự thích ứng và điều tiết lẫn nhau để tạo động lực phát triển. Cơ chế thị trường tự hình thành và phát triển cùng với sự xuất hiện của nền sản xuất và trao đổi hàng hoá.

1- Để từng bước tạo ra khung pháp lý thúc đẩy thị trường xăng dầu Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với thị trường khu vực và thế giới, các thương nhân đầu mối trước hết phải được phép tăng hoặc giảm giá bán lẻ xăng dầu trong “biên độ khung” cho phép. Hay nói cách khác, các cơ quan quản lý chức năng, trong bất kỳ trường hợp nào, cũng không được phép lấy danh nghĩa ổn định thị trường hoặc thực hiện chính sách an sinh xã hội để tăng hoặc giảm giá xăng dầu bằng các biện pháp hành chính khi mức điều chỉnh giá xăng dầu vẫn nằm trong biên độ khung quy định. Việc tăng hoặc giảm giá bán lẻ xăng dầu bằng các biện pháp hành chính trong thời gian qua, đã làm méo mó giá bán lẻ xăng dầu, không còn thấy bóng dáng cơ chế thị trường, khiến nhiều thương nhân đầu mối bị lỗ do cơ chế và gây bức xúc lớn trong dư luận.

2- Các tổng đại lý (đại lý) được phép ký kết hợp đồng cung ứng xăng dầu với nhiều thương nhân đầu mối (tổng đại lý) nếu các tổng đại lý và đại lý này không nhận được sự hỗ trợ về mặt tài chính từ phía thương nhân đầu mối hay tổng đại lý trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất của mình. Với cơ chế này nguồn cung ứng xăng dầu sẽ đa dạng hơn và điều đó sẽ góp phần tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thương nhân đầu mối và tổng đại lý trong việc duy trì cũng như phát triển thị phần của mình bằng cách tìm những nguồn hàng đảm bảo chất lượng với giá cả hợp lý cũng như cắt giảm các khoản chi phí bất hợp lý trong từng khâu kinh doanh. Mặt khác, nếu các Tổng đại lý hoặc đại lý được ký kết với nhiều nhà cung ứng xăng dầu hay tổng đại lý thì sẽ tiết giảm được chi phí vận chuyển trong trường hợp cửa hàng xăng dầu của Tổng đại lý hoặc đại lý gần với kho của nhà nhập khẩu hoặc tổng đại lý khác. Trong trường hợp này, thương nhân đầu mối và Tổng đại lý chỉ chịu trách nhiệm về chất lượng tại cửa kho giao hàng.

Trên đây là một vài suy nghĩ bước đầu của chúng tôi về phương thức quản lý hoạt động xăng dầu theo “cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước” và hy vọng rằng với phương thức quản lý mới này sẽ cởi trói cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình trong thời gian tới.

Theo TTN